Thủy hải sản

Hướng dẫn kỹ thuật uơng cua bột lên cua giống

Ngày đăng: 2016-09-20 15:25:47


Cua bột C2- C3 sản xuất nhân tạo đưa vào nuôi thương phẩm đã khắc phục được những nhược điểm của cua giống tự nhiên, có nhiều ưu việt.

Quảng Nam có diện tích nuôi trồng thủy sản nước lợ vùng triều khoảng 2.300ha, chủ yếu là nuôi tôm thẻ chân trắng, tôm sú. Tuy nhiên, những năm trở lại đây, do diện tích nuôi tôm ở vùng triều bị ô nhiễm, thường xuyên xảy ra dịch bệnh, hàng trăm hecta bỏ trống vì nuôi không hiệu quả. Do đó, để sử dụng tối đa, có hiệu quả diện tích mặt nước vùng triều, hạn chế dịch bệnh xảy ra thì những đối tượng có khả năng thích nghi rộng như Cua được đưa vào nuôi luân canh, xen canh trong các ao nuôi tôm nước lợ rất phù hợp, có hiệu quả về kinh tế và môi trường.

Đối với nuôi thủy sản nước lợ, Cua là đối tượng nuôi có nhiều ưu việt. Bởi, chúng thích nghi với các điều kiện ao hồ nuôi hiện tại ở vùng triều, thời gian nuôi ngắn và tương đối dễ nuôi; chi phí vừa phải phù hợp với khả năng đầu tư của đa số hộ gia đình, thị trường tiêu thụ dễ dàng, đầu ra sản phẩm ổn định, giá bán cao, đem lại thu nhập khá cho người dân.

Song, nguồn giống cua được người dân sử dụng để thả nuôi phụ thuộc từ nguồn giống khai thác tự nhiên, giống này có nhiều nhược điểm như: Kích cỡ không đồng đều, các phần phụ thường hay bị tổn thương do đánh bắt, chất lượng không đảm bảo, vì vậy khi nuôi dễ bị bệnh, tỷ lệ sống thấp, giá con giống cao, nguồn giống không chủ động về số lượng, mùa vụ...

Nhận thấy được điều này, trong 2 năm qua Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư đã ứng dụng, chuyển giao giống cua bột sản xuất nhân tạo vào nuôi thương phẩm ở vùng triều thành công và có nhiều triển vọng. Qua đó, chúng tôi đã xây dựng được Quy trình kỹ thuật nuôi Cua bột sản xuất nhân tạo lên cua thương phẩm phù hợp với điều kiện Quảng Nam, đặc biệt là giai đoạn ương từ Cua bột C2 - C3 lên cua giống để chuyển giao cho nông dân và khuyến cáo nhân rộng tại số địa phương như Tam Kỳ, Núi Thành, Hội An... Đây là giai đoạn quan trọng, quyết định tỷ lệ sống và chất lượng cua giống thả nuôi.

Cua bột 2, 3 (cua C2 - C3) có kích thước ≥ 0,5 cm, có thể thả trực tiếp xuống ao nuôi cua thương phẩm nếu như đáy ao nuôi được cải tạo triệt để, nước nuôi được xử lý tốt và phải được loại bỏ cua, cá tạp... trước khi lấy vào ao nuôi.

Tuy nhiên, phần lớn ở các ao nuôi cua khó có thể làm được điều đó nhất là việc nuôi cua trong ao ở vùng triều có diện tích lớn. Vì vậy, để cua thả nuôi đạt kích cỡ lớn hơn, bảo đảm tỷ lệ sống cao hơn thì phải ương nuôi Cua bột lên cua giống riêng. Có thể ương cua bột ở ao riêng có diện tích nhỏ bên cạnh ao nuôi cua thương phẩm hoặc chắn lưới một phần diện tích ao nuôi để ương (tốt nhất là ương cua bột trong ao đất).

 

Kỹ thuật nuôi Cua bột sản xuất nhân tạo lên cua thương phẩm trong ao được thực hiện như sau:


I. Ương cua bột lên cua giống


Hướng dẫn kỹ thuật uơng cua bột lên cua giống, co so cung cap cua bot giong, trai san xuat cua bot giong, bán cua bột giống
     Hình: Cua bột sản xuất nhân tạo C2 - C3


           

1. Chuẩn bị ao ương

- Ao đất dùng để ương cua bột có diện tích 200 - 500 m­2, sâu 0,8 - 1,2m. Ao ương tốt nhất nằm trong khu vực có độ mặn phù hợp với đặc tính sinh học của chúng như vùng cửa sông, vùng đầm phá... Ao phải có cống cấp thoát nước và chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều, thuận tiện cho việc thay nước, kích thích sự lột xác của chúng.

- Ao ương cua phải được cải tạo thật kỹ như ao nuôi tôm. Dùng lưới có kích thước mắt lưới 2a = 2 cm chắn xung quanh bờ ao, có góc nghiêng vào bên trong ao so với bờ ao là 450 nhằm để bảo vệ cua bò ra.

- Thả chà bằng cành cây khô, lá dừa hoặc giăng lưới cước khắp ao nuôi làm nơi trú ẩn cho cua khi lột xác, tránh ăn lẫn nhau.

- Nước cấp vào ao phải qua lưới lọc, đạt 0,6- 0,8m trở lên, có độ mặn từ 12 - 200/00, pH = 7,5 - 8,5, gây màu, các yếu tố khác đảm bảo thì mới tiến hành thả cua bột. Ao được chuẩn bị ít nhất 7 - 10 ngày trước khi thả cua bột xuống ương. 

2. Chọn và thả giống

- Cần phải thông báo cho trại sản xuất giống biết độ mặn ao ương cua để trại chủ động cân bằng độ mặn trước. Độ mặn của ao ương chênh lệch với trại giống không quá 5‰.

- Thả cua vào buổi sáng hoặc chiều lúc trời mát. Tránh những ngày có thời tiết xấu.

- Mật độ ương nuôi: 200 con/m2.

Cua bột từ trại giống được vận chuyển đến có thể bằng khay ẩm hoặc túi nhựa nylon có oxy, tùy khoảng cách giữa trại giống đến ao ương. Cua bột đem rải đều quanh ao theo số lượng đã tính trước. Khi thả cua bột nên thao tác thật nhẹ nhàng để tránh làm tổn thương cua.

3. Cho ăn và chăm sóc

* Thức ăn:

Trong ao ương cua giống có thể gây màu nước cho động vật phù du phát triển làm thức ăn tự nhiên cho cua, nhưng chủ yếu phải cho cua ăn thức ăn chế biến từ các loại bột, thịt cá, tôm, cua, còng, nhuyễn thể xay nhỏ, hấp cho ăn.

- Chuẩn bị thức ăn cho 3 - 5 ngày đầu: nguyên liệu gồm (trứng gà 30%; thịt cá, tôm, cua bóc vỏ 50%; bột 15%; nhuyễn thể: mực, hàu 5%; vitamin). Tất cả trộn đều và xay mịn sau đó hấp cách thuỷ, để nguội dùng mắt lưới nhỏ xa thức ăn tạo thành viên cho cua ăn.

Lượng thức ăn cho ăn từ 1,0 - 1,5 kg/10.000 cua bột (1 vạn)/ngày.

- Sau ngày thứ 5 trở đi cho ăn bằng thịt cá tạp, nhuyễn thể, giáp xác hấp cách thuỷ rồi băm nhỏ cho cua ăn.

Lượng thức ăn 10 - 15% trọng lượng cua thả. Số lượng thức ăn tăng dần theo sinh trưởng, tăng trọng của cua.

Thức ăn đem rải đều ven ao. Chia làm 2 lần: sáng sớm và chiều tối.

* Quản lý nước ao ương:

Sau 5 ngày kể từ ngày thả giống tiến hành thay 1/3 lượng nước trong ao để kích thích cua lột xác phát triển.

Từ ngày thứ 10 trở đi: 5 ngày thay nước 1 lần, mỗi lần thay 1/2 lượng nước hoặc thay nước theo thủy triều.

Việc thay nước này sẽ kích thích sự lột xác diễn ra dễ dàng hơn, cường độ bắt mồi tốt hơn và khả năng tăng trưởng nhanh.

Hàng ngày kiểm tra pH, oxy, nhiệt độ, độ mặn, bờ ao, chống mội, xói lở, hỏng rào chắn, bệnh và các địch hại vào trong ao. Khoảng 10 ngày cần xác định tỷ lệ sống, khả năng tăng trưởng của cua một lần. 

4. Thu hoạch

- Thu cua bằng vó: Cho thức ăn vào vó, nhử cua vào vó sau đó kéo lên chọn những con đạt tiêu chuẩn để thả nuôi cua thương phẩm.

- Thu toàn bộ: Tháo cạn nước để bắt toàn bộ cua giống.

Sau từ 25 - 30 ngày cua đạt kích cỡ 2,5 - 3,0cm (theo chiều rộng mai), trọng lượng khoảng 5 gam/con. Tỷ lệ sống có thể đạt 40 - 50%. Cỡ cua này có thể chuyển sang ao lớn để nuôi cua thương phẩm. Nếu cần cua giống cỡ lớn hơn thì phải san cua ra ao lớn hơn và nuôi mật độ thấp hơn.

Nếu ao nuôi thương phẩm cách xa ao ương thì có thể vận chuyển cua giống trong các túi cước với số lượng khoảng 500 con/túi, có cho ít cỏ, rong để cua bám và giữ ẩm, đặt vào thùng xốp hoặc các giỏ, sọt... vận chuyển đến ao nuôi./.

 

Tag: kỹ thuật nuôi cua thương phẩm từ giống cua bột sản xuất nhân tạo, cơ sở cung cấp cua bột giống, trại ương cua giống, bán cua bột giống, công ty cung cấp cua bột giống


Theo Trung tâm Khuyến nông Quảng Nam





TIN TỨC KHÁC :